Phương pháp mới phát hiện doping nhóm beta blocker và steroid trong nước tiểu
TNNN - Phương pháp phân tích doipng trên thiết bị LC/MS/MS là phương pháp mới (so với GC/MS, điện di trước đây) và là đầu tiên được áp dụng tại Việt Nam.
- Phương pháp mới giúp phát hiện hơn 50 loại ung thư
- Phương pháp mới có thể đo đạc huyết sắc tố mà không cần lấy mẫu máu
- Sử dụng sóng và ánh sáng, các nhà khoa học thực hiện truyền dữ liệu với tốc độ lên tới 100Gb/s
Doping là tên gọi chung của các chất kích thích bị cấm trong thi đấu thể thao. Các loại chất này nhìn chung đều có tác dụng đẩy nhanh tốc độ tuần hoàn máu, tăng cường khối lượng máu chảy về tim, làm tăng thể lực cùng sự tập trung cho các vận động viên. Điều này làm mất đi tính công bằng trong thi đấu thể thao.
Các quốc gia đang nỗ lực phát triển các phương pháp nhằm chống lại tình trạng gian lận trong thể thao do các vận động viên sử dụng doping. Ảnh minh họa
Ngoài việc sử dụng trong thi đấu, những năm gần đây, doping còn được sử dụng trong tập luyện (có trong thực phẩm chức năng, khẩu phần dinh dưỡng) hoặc đôi khi bị cố ý hay vô tình đưa vào trong quá trình chữa bệnh. Chính vì vậy, bác sĩ và huấn luyện viên phải có những thông tin chính xác về thành phần, nồng độ các chất cấm trong thuốc hay thực phẩm để quyết định việc sử dụng của vận động viên. Bởi khi xét nghiệm, có kết quả dương tính thì dù với bất cứ lý do gì cũng là vi phạm luật.
Hiện nay, việc kiểm tra doping trước, trong và ngay sau khi thi đấu đã trở thành một điều kiện bắt buộc đối với các giải thi đấu thể thao. Với các sự kiện thể thao quốc tế, kiểm tra doping là yêu cầu bắt buộc phải thực hiện.
Tất cả các công việc phân tích kiểm tra doping này đều phải được thực hiện tại các phòng thí nghiệm phân tích doping do Tổ chức chống doping thế giới – WADA (World Anti-Doping Agency) công nhận và chỉ định.
Trong nỗ lực phát triển nghiên cứu nhằm từng bước nâng cao năng lực nghiên cứu doping nói chung và phân tích doping nói riêng của Việt Nam, phục vụ cho quá trình hội nhập thể thao thành tích cao Bộ Khoa học Công nghệ đã giao nhiệm vụ cho Cơ quan chủ trì Viện Công nghệ môi trường phối hợp với Chủ nhiệm đề tài PGS.TS Nguyễn Hồng Khánh thực hiện đề tài “Nghiên cứu xây dựng một số phương pháp phát hiện doping nhóm beta bloker và steroid trong nước tiểu” phân tích doping tại Việt Nam.
Sau thời gian nghiên cứu, đề tài đã thu được những kết quả sau:
Đề tài đã tổng hợp, biên tập và xây dựng được dự thảo quy trình cho việc lấy mẫu nước tiểu phục vụ công tác kiểm soát doping trên cơ sở các quy định, hướng dẫn của WADA. Quy trình này ngắn gọn, dễ hiểu hơn, phù hợp điều kiện Việt Nam và hoàn toàn tuân thủ theo các quy định của WADA. Ngoài ra, quy trình này còn giúp cho các vận động viên, huấn luyện viên và giám sát viên hiểu rõ, nắm bắt được các bước, thao tác trong việc lấy mẫu nước tiểu, tạo thuận lợi khi thi đấu quốc tế.
Các nghiên cứu cũng đưa ra được các điều kiện phù hợp cho xây dựng dự thảo quy trình phân tích 10 beta-blocker và 20 steroid (là các chất cấm và thường được sử dụng cho các vận động viên trong các môn thể thao thế mạnh của Việt Nam) trong mẫu nước tiểu trên thiết bị sắc ký lỏng khối phổ (LC/MS/MS). Phương pháp phân tích doipng trên thiết bị LC/MS/MS là phương pháp mới (so với GC/MS, điện di trước đây) và là đầu tiên được áp dụng tại Việt Nam.
Quy trình có độ thu hồi từ 79% đến 111%, độ lệch chuẩn tương đối nằm trong khoảng từ ± 2 đến ± 13% với giới hạn phát hiện của các chất nghiên cứu từ 1 – 4 ppb. Như vậy, quy trình đáp ứng được các yêu cầu về phân tích doping của WADA.
Quy trình lấy mẫu và phân tích đã được áp dụng thử nghiệm cho kiểm soát doping trong mẫu nước tiểu của các vận động viên trong quá trình tập luyện và một số giải thi đấu của 2 đội tuyển Quốc gia là cử tạ và taekwondo. Quá trình thử nghiệm không gặp khó khăn hay vướng mắc nào.
Các dự thảo quy trình đề tài xây dựng được là tiền đề ban đầu cho xây dựng phòng thí nghiệm phân tích doping của Việt Nam và hoàn toàn có khả năng đáp ứng được cho nhu cầu kiểm soát doping trong nước với các nhóm chất nghiên cứu.
Có thể tìm đọc báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 14058/2017) tại Cục Thông tin KHCNQG.
Nguồn: Cục Thông tin KHCNQG