Theo dòng sự kiện

Bệnh nhân vẩy nến đang dùng thuốc ức chế miễn dịch có tỷ lệ khỏi Covid-19 cao

13/11/2020, 09:58

TNNN - Một số phát hiện của nhóm các nhà nghiên cứu Psoprotect (PsoProtect là cổng đăng ký quốc tế dành cho các tổ chức y tế để báo cáo kết quả của COVID-19 ở những người bị bệnh vẩy nến) về mối liên quan giữa bệnh nhân vẩy nến với Covid-19.

 
Đại dịch COVID-19 đã dẫn đến những thách thức chưa từng có đối với cộng đồng khoa học và lâm sàng quốc tế. Số liệu ghi nhận cho thấy có hơn 60 triệu bệnh nhân vẩy nến trên toàn thế giới và nguy cơ nhập viện của nhóm này có liên quan đến nhiễm trùng đường hô hấp cao hơn so với người bình thường. Hơn nữa, vẫn chưa chắc chắn liệu các loại thuốc ức chế miễn dịch-phương pháp điều trị chính cho bệnh nhân vẩy nến có làm trầm trọng thêm nguy cơ nhiễm trùng hay không.
 
Nghiên cứu dựa trên cổng đăng ký này bao gồm hai nguồn dữ liệu. Nguồn dữ liệu chính là sổ đăng ký trực tuyến do bác sĩ lâm sàng báo cáo. Dữ liệu được thu thập và quản lý bằng các công cụ thu thập dữ liệu điện tử REDCap - một nền tảng phần mềm dựa trên web, an toàn được thiết kế để hỗ trợ thu thập dữ liệu.
 
Tiêu chí để ghi nhận là bất kỳ bệnh nhân nào bị bệnh vẩy nến và được bác sĩ lâm sàng giám sát xác nhận/nghi ngờ nhiễm COVID-19, bệnh nhân được theo dõi ít nhất 14 ngày sau khi triệu chứng khởi phát và khi đã đủ thời gian để quan sát kết quả của nhiễm trùng. Nguồn dữ liệu thứ hai là một sổ đăng ký bệnh nhân tự báo cáo trực tuyến riêng biệt, PsoProtectMe. Tiêu chí để ghi nhận là bác sĩ lâm sàng chẩn đoán bệnh vẩy nến, bất kể tình trạng COVID-19 như thế nào. Những người tham gia được mời qua các kênh liên lạc của nhiều tổ chức bệnh nhân vẩy nến quốc tế.
 
Dữ liệu PsoProtect và PsoProtectMe được trích xuất lần lượt vào ngày 1 và 3 tháng 7 năm 2020. Các mục nhập không đầy đủ, trùng lặp và sai sót đã được nhóm nghiên cứu xem xét thủ công và loại bỏ. Tất cả phân tích được thực hiện bằng ngôn ngữ lập trình thống kê R. Đặc điểm nhân khẩu học, lâm sàng và kết quả COVID-19 của dân số nghiên cứu đã được tóm tắt bằng cách sử dụng thống kê mô tả. Các biến liên tục được báo cáo bằng cách sử dụng thống kê trung vị và độ trải giữa (IQR), các biến phân loại/phân đôi như số nguyên và phần trăm.
 
Nhóm đối tượng chính là các bệnh nhân điều trị bệnh vẩy nến tối đa bốn tuần trước khi khởi phát Covid-19, bao gồm: sinh học (chất ức chế TNF: adalimumab, certolizumab pegol, etanercept, infliximab, golimumab; chất ức chế IL-17: brodalumab, ixekizumab, secukinumab; chất ức chế IL12/IL23p40 hoặc IL-23p19 (gọi chung là IL-23): guselkumab, risankizumab, tildrakizumab, ustekinumab); các tác nhân toàn thân không sinh học (acitretin, apremilast, ciclosporin, methotrexate, fumaric acid esters/dimethylfumarate, prednisolone) và điều trị không toàn thân.
 
Mối liên quan giữa phương pháp điều trị (chế phẩm sinh học toàn thân, không sinh học hoặc không điều trị toàn thân) và nhập viện vì COVID-19 được đánh giá bằng cách sử dụng: (a) điều chỉnh tối thiểu mô hình hồi quy bao gồm biến tuổi và giới tính; và (b) một mô hình được điều chỉnh hoàn toàn bao gồm một danh sách đồng biến của các biến được ưu tiên lựa chọn là tiềm ẩn rủi ro, cụ thể là tuổi, giới tính, dân tộc, quốc gia, hút thuốc, chỉ số BMI và các bệnh đi kèm.
 
Các biến số khác (sử dụng thuốc ức chế men chuyển, sử dụng thụ thể angiotensin II, béo phì) có tương quan (| r |> 0,5). Mức độ của các biến phân loại có số lượng nhỏ (<10 quan sát của một trong hai kết quả) đã được hợp nhất. Béo phì đi kèm được giả định khi chỉ số hình thể BMI>30, thậm chí có nơi không báo cáo trực tiếp.
 
Sai lệch lựa chọn trong dữ liệu bị thiếu được khám phá bằng cách so sánh bệnh nhân với dữ liệu bị thiếu cho các biến có trong mô hình đã được điều chỉnh đầy đủ (BMI, hút thuốc hoặc BMI và hút thuốc lá) cho những bệnh nhân có dữ liệu đầy đủ. Sự khác biệt nhỏ được quan sát thấy trong tỷ lệ nam giới, dân tộc da trắng, đã xác nhận chẩn đoán COVID-19 và nhập viện.
 
Phần lớn thời gian, bệnh nhân thể vừa đến thể nặng được điều trị bởi các loại thuốc liên quan đến hệ thống miễn dịch bao gồm các chế phẩm sinh học nhắm đến protein miễn dịch cụ thể hoặc các thuốc ức chế miễn dịch dạng viên truyền thống và thời kì đại dịch, các bệnh nhân này được yêu cầu uống để phòng ngừa.
 
Theo tiến sĩ Satveer Mahil - một thành viên nhóm nghiên cứu “Các phân tích của chúng tôi rất quan trọng trong việc trấn an bệnh nhân của mình rằng bệnh nhân vẩy nến có cơ hội sống sót cao và các yếu tố rủi ro với bệnh nhân vẩy nến cũng tương tự như đối với người bình thường”.
 
Nhóm nghiên cứu đã phân tích 374 trường hợp bệnh nhân vẩy nến từ 25 quốc gia bị nhiễm Covid-19. Trong đó 334 bệnh nhân (chiếm 89%) đang dùng thuốc điều trị bệnh vẩy nến với 267 người (71%) dùng chế phẩm sinh học và 67 người (18%) dùng viên ức chế miễn dịch truyền thống.
 
Nhóm nghiên cứu đã nhận ra rằng hầu hết 348 (93%) người bệnh khỏi hoàn toàn Covid-19; 77 người (21%) phải nhập viện và 9 người (2%) chết. Nghiên cứu nhận ra rằng, giống như người bình thường, bệnh nhân nam, già, không thuộc chủng da trắng, có bệnh nền như phổi mãn tính thường phải nhập viện do nhiễm Covid-19.
 
Việc sử dụng chế phẩm sinh học điều trị toàn thân làm giảm nguy cơ phải nhập viện do Covid-19 hơn là điều trị bằng các liệu pháp khác, tuy nhiên, cần phải nghiên cứu sâu thêm. Điều này sẽ mở ra con đường nhận biết các yếu tố quyết định trong điều trị Covid-19 ở các bệnh nhân vẩy nến ở mức độ hiệu quả hơn.

 

Thanh Bình dịch

Nguồn: Tin tức Y tế Thái Lan

Bình luận