Phẫu thuật barective có thể làm giảm nguy cơ bệnh tim và đột quỵ
TNNN - Kết quả nghiên cứu mới nhất đã chỉ ra rằng, phẫu thuật barective có liên quan và góp phần giảm đáng kể các cơn đau tim, đột quỵ.
- Tiếp xúc với bụi siêu mịn có thể làm tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim
- Nghiên cứu mới tái khẳng định: Béo phì gây ra trầm cảm
- Đình chỉ lưu hành và thu hồi thuốc Young IL Captopril Tablet điều trị tăng huyết áp, suy tim
Phẫu thuật barective làm giảm các cơn đau tim và đột quỵ. Nguồn: Tạp chí Tim mạch châu Âu
Một nghiên cứu trên toàn quốc với gần 7.500 người béo phì hoặc béo phì nghiêm trọng đã phát hiện ra rằng, phẫu thuật barective có liên quan và góp phần giảm đáng kể các cơn đau tim, đột quỵ.
Nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Tim mạch châu Âu [1] ngày 19/3/2020 cho thấy, trong số 3.701 đàn ông và phụ nữ được phẫu thuật, các cơn đau tim không gây tử vong và đột quỵ nhỏ hơn 60% so với một số bệnh nhân không phẫu thuật, hoặc trong trung bình 11 năm sau phẫu thuật.
Ngoài ra, những bệnh nhân sau phẫu thuật đều giảm trung bình hơn 10 kg, trong đó, bệnh tiểu đường tuýp 2 có khả năng được cải thiện tốt đến mức, bệnh nhân không còn cần dùng thuốc để duy trì lượng đường trong máu.
Phẫu thuật barective nhằm hạn chế lượng thức ăn dung nạp vào dạ dày, bằng cách thêm vào một lớp phủ xung quanh dạ dày, hoặc đặt một ống nối từ phần trên của dạ dày với ruột non. Cả hai phương pháp đều nhằm mục đích giúp bệnh nhân không cần phải ăn quá nhiều để cảm thấy no, và thức ăn không vào đến dạ dày, điều đó làm giảm số lượng calo hấp thụ từ thức ăn. [2]
Các nhà nghiên cứu tại Đại học Hoàng gia Luân Đôn (Anh) đã phân tích dữ liệu từ cơ sở dữ liệu Nghiên cứu thực hành lâm sàng (CPRD), nơi lưu giữ thông tin về hơn 11 triệu bệnh nhân với 674 ca phẫu thuật tại Anh, trong khoảng thời gian từ năm 1987 đến nay.
Khi bắt đầu nghiên cứu, nhóm tác giả đã trích xuất dữ liệu của 3.701 bệnh nhân có chỉ số khối cơ thể (BMI) từ 35 kg/m2 trở lên, những người không bị đau tim hoặc đột quỵ và đã trải qua phẫu thuật; xem xét đối chứng một nhóm gồm 3.701 bệnh nhân phù hợp với nhóm đầu tiên về tuổi, BMI và giới tính nhưng chưa được phẫu thuật.
Các nhà nghiên cứu đã điều chỉnh những yếu tố có thể ảnh hưởng đến kết quả, chẳng hạn như nồng độ cholesterol trong máu cao, hút thuốc, sử dụng rượu và cocaine, tập thể dục và sử dụng thuốc statin, thuốc chẹn beta (acebutolol, atenolol, metoprolol, bisoprolol, propranolol,...) và liệu pháp thay thế hormone. Tuổi trung bình là 36 (ở cả hai nhóm); BMI trung bình trước khi phẫu thuật là 40,5 kg/m2 trong nhóm đã phẫu thuật barective và 40,3 kg/m2 trong nhóm không phẫu thuật.
Trong thời gian theo dõi, có 37 cơn đau tim hoặc không gây tử vong hoặc đột quỵ ở nhóm phẫu thuật barective và 93 ở nhóm không phẫu thuật.
Tiến sĩ Maddalena Ardissino, tác giả đầu tiên của bài báo EHJ, cho biết: Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, những người trải qua phẫu thuật barective, tỷ lệ đau tim và đột quỵ thấp hơn đáng kể, đặc biệt là tỷ lệ đau tim thấp hơn trước phẫu thuật. Điều này có nghĩa, phẫu thuật barective có liên quan đến việc giảm 1,5% nguy cơ đau tim hoặc đột quỵ; 62 bệnh nhân sẽ cần phải phẫu thuật cắt bỏ để ngăn ngừa đau tim hoặc đột quỵ. Vì đây là một nhóm bệnh nhân trẻ tuổi nên các nhà khoa học mong muốn điều này sẽ tương tự hoặc ít hơn so với nhóm bệnh nhân lớn tuổi. Việc giảm nguy cơ tuyệt đối có ý nghĩa lâm sàng quan trọng.
Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, tỷ lệ đột quỵ do thiếu máu cục bộ cấp tính giữa hai nhóm cũng tương tự nhau, mặc dù rất ít sự kiện được ghi nhận.
Đã giảm 60% các chẩn đoán mới về suy tim trong thời gian theo dõi, gồm 22 bệnh nhân ở nhóm phẫu thuật và 46 bệnh nhân ở nhóm kiểm soát, và tử vong do bất kỳ nguyên nhân nào. Tỷ lệ này ở những bệnh nhân phẫu thuật barective thấp hơn 80%. Với những người không phẫu thuật, con số này là 45 so với 182 người chết tương ứng.
Peter Collins, Giáo sư Tim mạch lâm sàng tại Viện Tim và Phổi Quốc gia tại Imperial - đồng tác giả của nghiên cứu cho biết: Điều quan trọng cần nhấn mạnh rằng, đây là một nghiên cứu hồi cứu nên chỉ có thể cho thấy mối liên quan giữa phẫu thuật barective với giảm nguy cơ đau tim và đột quỵ chứ không phải phẫu thuật để giảm nguy cơ. Các thử nghiệm lớn, tiềm năng sẽ được yêu cầu thực hiện để chứng minh quan hệ nhân quả. Tuy nhiên, việc quan sát sự khác biệt trong các dấu hiệu tim mạch là đáng chú ý và nó chỉ ra rằng, nếu một nguyên nhân thực sự tồn tại, kích thước của nó có tiềm năng rất lớn và quan trọng.
Những phát hiện này đòi hỏi phải nâng cao nhận thức và tăng sự hấp thu của phẫu thuật barective như là một bước điều trị cho những bệnh nhân béo phì không giảm cân nhiều bằng việc áp dụng lối sống và liệu pháp dược lý. Điều này rất quan trọng, vì chỉ một số ít bệnh nhân được đề nghị và một số ít trong số này đã trải qua phẫu thuật. Tỷ lệ ước tính thấp nhất là 1%. [3]
Ông Sanjay Purkayastha, giảng viên cao cấp của Imperial và cũng là bác sĩ phẫu thuật tư vấn tại Imperial College chăm sóc sức khỏe NHS Trust, đồng thời là tác giả đầu tiên của nghiên cứu cho biết: Cùng với vô số bằng chứng mới, lợi ích của phẫu thuật không chỉ đơn thuần là giảm cân mà còn có ý nghĩa trong việc quản lý, phòng ngừa các vấn đề sức khỏe liên quan đến béo phì.
Các bác sĩ đa khoa nên xem xét việc giới thiệu sớm hơn những bệnh nhân đủ điều kiện, để họ đạt được lợi ích lớn hơn. Đặc biệt đối với những bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường tuyp 2, vì một số nghiên cứu ngẫu nhiên đã chỉ ra rằng, phẫu thuật barective tốt hơn so với việc theo dõi và quản lý điều trị. Các nghiên cứu tương tự cần sớm thực hiện để nghiên cứu sâu hơn về tác động của các cơn đau tim và đột quỵ.
Cho đến nay, đây là nghiên cứu lớn nhất về mối tương quan của phẫu thuật barective với giảm cân, nguy cơ bị bệnh tim và đột quỵ. Tuy nhiên, do đối tượng nghiên cứu mới đề cập đến nhóm bệnh nhân trẻ tuổi, nên kết quả chưa thể hiện được tính toàn diện đối với người dân của Vương quốc Anh và các nước phương Tây.
Mặt khác, vì tính chất đa dạng của dân số Vương quốc Anh trong cơ sở dữ liệu CPRD, nên trong nghiên cứu này có những hạn chế: Độ tuổi trung bình của bệnh nhân tương đối thấp (36 tuổi), ít bị đau tim và đột quỵ, do đó hiệu quả của phẫu thuật có thể bị đánh giá thấp. Ngoài ra, các yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu có thể chưa được tìm ra hoặc không thể đo lường được.
Ghi chú:
[1] “Hiệu quả của phẫu thuật barective đối với bệnh tim mạch: một nghiên cứu đoàn hệ lồng ghép trên toàn quốc, Osama Moussa et al. European Heart Journal. DOI: 10.1093/eurheartj/ehaa069.
[2] Rủi ro của phẫu thuật barective là thấp: nguy cơ tử vong khoảng 1 trong 1400 bệnh nhân; các biến chứng hiếm gặp khác bao gồm cục máu đông, nhiễm trùng và loét; nguy cơ biến chứng khoảng một phần mười, nhưng khả năng rất nhỏ.
[3] Tại Vương quốc Anh, bệnh nhân đủ điều kiện để phẫu thuật barective là khi họ đã thử và thất bại với các hình thức giảm cân khác trong ít nhất sáu tháng đến một năm, có chỉ số BMI từ 40 kg/m2 trở lên; những người có BMI từ 35 kg/m2 nếu có vấn đề sức khỏe.
Ở những bệnh nhân có nguồn gốc châu Á hoặc Nam Á, chỉ số BMI đủ điều kiện giảm 2,5 kg/m2. Tuy nhiên, nhận thức và cách tiếp cận phẫu thuật barective ở cả trong nước và giữa các quốc gia vẫn đang có sự khác biệt lớn.
Theo https://scitechdaily.com/bariatric-surgery-associated-with-significant-weight-loss-fewer-heart-attacks-and-strokes/