Hội thảo “Thị trường Carbon – Chìa khóa thực hiện mục tiêu Net zero”
TNNN - Sáng 24/10 tại Hà Nội, Hội Nước và Môi trường Việt Nam phối hợp cùng Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, tổ chức hội thảo “Thị trường Carbon – Chìa khóa thực hiện mục tiêu Net zero”. Sự kiện có sự tham gia của đại diện các cơ quan quản lý, nhà khoa học, doanh nghiệp để cùng trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, thảo luận về thị trường Carbon.
- Vaccine COVID-19 ADN hiệu quả trên chuột và chuột đồng
- Nga thử nghiệm vaccine COVID-19 dạng xịt mũi cho trẻ em
- Khai mạc Hội nghị Trung ương lần thứ 13
- JFSM thừa nhận VinaCert là tổ chức đầu tiên tại Đông Nam Á chứng nhận tiêu chuẩn JFS-C
Tham dự hội thảo có: Ông Nguyễn Quyết Chiến, Tổng thư ký Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam; ông Chu Phạm Ngọc Hiển, Nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Chủ tịch Hội Nước và Môi trường Việt Nam; bà Phạm Thị Xuân - Phó Chủ tịch thường trực Hội Nước và Môi trường Việt Nam; ông Nguyễn Văn Toàn, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Biên tập Tạp chí Môi trường và Cuộc sống; ông Hà Quang Anh, Giám đốc Trung tâm Thích ứng Biến đổi khí hậu và Trung hòa carbon, Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Nông nghiệp và Môi trường; ông Nguyễn Hoài Dương, nguyên Ủy viên Ban Thường vụ, nguyên Giám đốc sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Đắc Lắk, Ủy viên Ban thường vụ Hội nước và Môi trường Việt Nam; cùng đại diện các phòng ban chuyên môn của Hội nước và Môi trường Việt Nam, các chuyên gia, nhà khoa học, doanh nghiệp trong lĩnh vực Nước, Môi trường và Biến đổi khí hậu.
Ông Nguyễn Quyết Chiến, Tổng thư ký Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam và ông Nguyễn Văn Toàn, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Biên tập Tạp chí Môi trường và Cuộc sống chủ trì Hội thảo
Phát biểu khai mạc Hội thảo “Thị trường các-bon – Chìa khóa thực hiện mục tiêu Net Zero”, Tổng Thư ký Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Nguyễn Quyết Chiến nhấn mạnh: Biến đổi khí hậu là một trong những thách thức nghiêm trọng nhất thế kỷ XXI. Thực hiện cam kết tại Hội nghị COP26, Việt Nam đặt mục tiêu đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, thể hiện quyết tâm cùng thế giới ứng phó với biến đổi khí hậu.
Ông Nguyễn Quyết Chiến, Tổng thư ký Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam
Theo ông, việc xây dựng và phát triển thị trường các-bon trong nước là công cụ kinh tế quan trọng, thúc đẩy doanh nghiệp chuyển đổi mô hình sản xuất theo hướng xanh và bền vững. Hiện Việt Nam đang hoàn thiện cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ các-bon phù hợp với điều kiện trong nước, hướng tới một thị trường minh bạch, công bằng và hội nhập quốc tế. Ông Chu Phạm Ngọc Hiển, Nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Chủ tịch Hội Nước và Môi trường Việt Nam phát biểu tại Hội thảo
Toàn cảnh Hội thảo
Tuy nhiên, khung pháp lý hiện nay mới ở mức cơ bản, đòi hỏi nghiên cứu sâu hơn về cơ chế định giá, phạm vi trao đổi tín chỉ cũng như kinh nghiệm quốc tế để hoàn thiện thể chế. Với vai trò thành viên Ban Chỉ đạo quốc gia về Tăng trưởng xanh, Liên hiệp Hội Việt Nam phối hợp với Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam tổ chức hội thảo nhằm tạo diễn đàn trao đổi giữa các cơ quan quản lý, chuyên gia, doanh nghiệp và nhà khoa học.
Ông Nguyễn Quyết Chiến khẳng định, việc xây dựng thị trường các-bon hiệu quả sẽ là “chìa khóa” giúp Việt Nam đạt mục tiêu Net Zero vào năm 2050.
Lịch sử hình thành và kinh nghiệm quốc tế về xây dựng thị trường các-bon
Mở đầu phần tham luận tại Hội thảo, TS. Hà Quang Anh, Giám đốc Trung tâm Thích ứng BĐKH và Trung hòa các - bon, Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã trình bày tham luận về lịch sử thị trường carbon quốc tế được hình qua 4 giai đoạn khác nhau.
TS. Hà Quang Anh, Giám đốc Trung tâm Thích ứng BĐKH và Trung hòa các bon, Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Nông nghiệp và Môi trường.
Giai đoạn khởi nguồn là Nghị định thư Kyoto (1997, hiệu lực từ 2005). Lần đầu tiên trong lịch sử, cộng đồng quốc tế thông qua hiệp ước ràng buộc pháp lý về giảm phát thải khí nhà kính (KNK) cho các nước công nghiệp phát triển.
Thị trường cac bon phát triển mạnh với hệ thống trao đổi phát thải của Liên minh châu Âu (EU ETS) là hệ thống “cap-and-trade” đầu tiên quy mô lớn trên thế giới. Mô hình này trở thành khuôn mẫu cho nhiều quốc gia và khu vực khác (Anh, Hàn Quốc, Trung Quốc…).
Tiếp đến mở rộng thị trường tự nguyện và tiêu chuẩn (Verra, Gold Standard...) v.v.): Song song cơ chế bắt buộc, thị trường tự nguyện phát triển mạnh với các tiêu chuẩn chứng nhận (VCS/Verra, Gold Standard) để phát hành “carbon credits” dùng trong mục tiêu bù trừ (offsetting) của doanh nghiệp và tổ chức.
Năm 2015 bước sang giai đoạn hợp tác toàn cầu minh bạch hơn dưới thỏa thuận Paris hướng tới hợp tác quốc tế theo nguyên tắc minh bạch. Tại Điều 6, đưa ra các cơ chế nhằm cho phép các nước giảm phát thải một cách hiệu quả hơn bằng cách trao đổi tín chỉ các-bon và hợp tác trong các hoạt động giảm phát thải và tăng cường minh bạch.
Theo phân tích của TS. Hà Quang Anh, từ những kinh nghiệm rút ra tại thị trường quốc tế, ông khuyến nghị cho Việt Nam hoàn thiện khung pháp lý nền tảng (Nghị định/Thông tư về ETS, cơ chế bù trừ nội địa, registry, MRV, trách nhiệm pháp lý). Triển khai thí điểm ETS theo giai đoạn: bắt đầu từ những ngành có MRV tốt; dùng pilot để tinh chỉnh thiết kế. Sớm vận hành hệ thống MRV quốc gia & nâng năng lực doanh nghiệp: Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs), chương trình đào tạo MRV, tạo nền tảng dữ liệu đáng tin. Khuyến khích tín chỉ chất lượng cao cho các dự án rừng/nông nghiệp và hoàn thiện khung pháp lý cho xuất khẩu tín chỉ, đảm bảo tương thích Điều 6 (PA). Tương tác doanh nghiệp – Nhà nước – Xã hội: Tạo diễn đàn kỹ thuật để doanh nghiệp góp ý hoàn thiện, minh bạch tăng chấp nhận xã hội.
Thị trường các-bon – Cơ hội cho phát triển xanh tại Việt Nam
Chia sẻ tại Hội thảo, ông Phạm Nam Hưng – Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho hay: Thị trường các-bon là một trong những công cụ quan trọng giúp giảm phát thải khí nhà kính (KNK) một cách hiệu quả và linh hoạt. Đây không chỉ là cơ chế thực hiện cam kết quốc tế mà còn mở ra cơ hội phát triển xanh, thu hút nguồn lực tài chính và nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp Việt Nam.
Ông Phạm Nam Hưng – Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Nông nghiệp và Môi trườntrình bày tham luận tại Hội thảo
Thị trường các-bon cho phép các quốc gia, doanh nghiệp và cá nhân mua bán, trao đổi quyền phát thải và tín chỉ carbon. Cách tiếp cận này giúp giảm phát thải với chi phí hợp lý, đồng thời thúc đẩy đầu tư vào công nghệ sạch và phát triển các dự án giảm phát thải.
Trên thế giới hiện nay tồn tại bốn hình thức thị trường phổ biến: Thị trường quốc tế trong khuôn khổ UNFCCC, thị trường quốc tế tự nguyện (VCM), thị trường tuân thủ quốc gia và thị trường tự nguyện quốc gia. Đây là các kênh quan trọng giúp huy động nguồn lực tài chính xanh phục vụ cho các mục tiêu khí hậu.
Việt Nam đã xây dựng nền tảng pháp lý quan trọng để hình thành thị trường các-bon trong nước. Luật Bảo vệ môi trường tạo khung pháp lý cho việc trao đổi hạn ngạch và tín chỉ carbon. Tiếp đó, Nghị định 06/2022/NĐ-CP quy định cụ thể về kiểm kê KNK, đối tượng tham gia, hàng hóa giao dịch và lộ trình phát triển thị trường đến năm 2030.
Đặc biệt, Nghị định 119/2025/NĐ-CP sửa đổi mở rộng phạm vi đối tượng tham gia, làm rõ cơ chế phân bổ hạn ngạch, đồng thời tích hợp cơ chế theo Điều 6 của Thỏa thuận Paris, tạo tiền đề quan trọng để Việt Nam kết nối với thị trường carbon quốc tế.
Lộ trình phát triển được chia làm ba giai đoạn: Hoàn thiện pháp lý và hạ tầng đến 2025; thí điểm sàn giao dịch carbon giai đoạn 2025–2028; và chính thức vận hành thị trường từ sau 2029. Doanh nghiệp có thể giao dịch hạn ngạch, sử dụng tín chỉ carbon để bù trừ tối đa 30% lượng phát thải được phân bổ.
“Doanh nghiệp sẽ là trung tâm của thị trường. Đây không chỉ là công cụ thực hiện cam kết khí hậu mà còn là cơ hội nâng cao năng lực cạnh tranh và thu hút đầu tư,” ông Hưng chia sẻ.
Song song với thị trường trong nước, Việt Nam sẽ tích cực tham gia thị trường quốc tế, ưu tiên các dự án quy mô lớn, công nghệ cao, giảm phát thải hiệu quả.
“Phát triển thị trường các-bon là xu thế tất yếu, giúp Việt Nam vừa phát triển kinh tế, vừa bảo vệ môi trường, hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng ‘0’,” ông Hưng khẳng định.
Các công tác chuẩn bị khi doanh nghiệp tham gia thị trường các-bon
Chia sẻ tại Hội thảo, ông Nguyễn Tiến Cường – Giám đốc Trung tâm Tăng trưởng xanh cho biết, để tham gia thị trường carbon các doanh nghiệp còn nhiều thách thức như: Thiếu dữ liệu phát thải chuẩn hóa; chi phí chuyển đổi cao; rủi ro pháp lý; nhận thức chưa đồng đều.
Ngoài những thách thức trong quá trình tham gia thị trường carbon, các doanh nghiệp cũng có nhiều cơ hội nâng cao năng lực cạnh tranh: Đáp ứng yêu cầu “xanh hóa” từ đối tác quốc tế, đặc biệt là các rào cản thuế carbon (CBAM – Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon của EU).
Ông Nguyễn Tiến Cường – Giám đốc Trung tâm Tăng trưởng xanh chia sẻ tham luận tại Hội thảo
Bên cạnh đó, có thể tạo doanh thu mới từ việc bán tín chỉ carbon hoặc hợp tác trong các dự án giảm phát thải. Doanh nghiệp cũng có cơ hội gia tăng thương hiệu bền vững: Gắn kết với người tiêu dùng và nhà đầu tư quan tâm đến phát triển xanh và thu hút đầu tư và tín dụng xanh. Các tổ chức tài chính ưu tiên doanh nghiệp có chiến lược giảm phát thải rõ ràng.
Ông Nguyễn Tiến Cường cũng chỉ ra 5 việc doanh nghiệp cần làm để tham gia vào thị trường carbon. Thứ nhất, hoàn thành nghĩa vụ Kiểm kê Khí nhà kính. Trong đó, doanh nghiệp cần lập kế hoạch và phân công nhân sự; thu thập dữ liệu hoạt động của năm 2024; tính toán phát thải và lập báo cáo theo mẫu; lựa chọn thuê một đơn vị độc lập có chức năng để thẩm định báo cáo; nộp báo cáo đã thẩm định cho UBND cấp tỉnh/ cơ quan có thẩm quyền.
Thứ hai, kế hoạch giảm nhẹ và nhận phân bổ hạn ngạch phát thải. Cụ thể, doanh nghiệp cần đặt mục tiêu giảm phát thải theo giai đoạn gắn với chiến lược phát triển bền vững của Doanh nghiệp; đầu tư công nghệ sạch, tối ưu quy trình sản xuất, nguyên liệu, rác thải (ví dụ: Lò hơi sinh khối, năng lượng mặt trời, tái chế nhiệt); tối ưu chuỗi cung ứng và logistics xanh; tích hợp các chỉ số phát thải vào báo cáo ESG (Môi trường – Xã hội – Quản trị).
Thứ ba, nâng cao năng lực quản trị carbon nội bộ. Để đạt được điều này, doanh nghiệp cần thành lập bộ phận hoặc nhóm công tác về carbon (có thể thuộc phòng ESG hoặc HSE); tiếp theo, đào tạo nhân viên về khái niệm tín chỉ carbon, quy trình MRV, định giá carbon và sử dụng công cụ phần mềm quản lý phát thải hoặc. Thuê tư vấn chuyên nghiệp để đảm bảo tính chính xác, thường xuyên.
Thứ tư, chuẩn bị tài chính và tuân thủ pháp lý. Trong đó, có chi phí kiểm kê phát thải và thẩm định; chi phí đầu tư giảm phát thải; chi phí mua tín chỉ carbon hoặc hạn ngạch nếu vượt mức phát thải cho phép.
Thứ năm, Hợp tác và kết nối quốc tế. Từ việc này các doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng: Cơ chế tín chỉ chung (JCM) giữa Việt Nam và Nhật Bản – hỗ trợ tài chính cho dự án giảm phát thải; cơ chế hợp tác theo Điều 6 Thỏa thuận Paris (Article 6) cho phép giao dịch tín chỉ carbon giữa các quốc gia; các chương trình tài chính xanh và quỹ khí hậu toàn cầu (Green Climate Fund, World Bank, ADB…); việc hợp tác với các doanh nghiệp FDI, các quỹ đầu tư, tổ chức quốc tế sẽ giúp doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận công nghệ, tiêu chuẩn và nguồn vốn tốt hơn.
Hiệu quả kinh tế, xã hội và lợi ích về môi trường khi tham gia thị trường tín chỉ các-bon tại một số doanh nghiệp
Tham luận tại hội thảo, đại diện Công ty Cổ phần MinMax Green - bà Tô Thị Hồng Điệp cho biết việc tham gia thị trường tín chỉ carbon không chỉ là bước đi chiến lược của Công ty Cổ phần MinMax Green trong tiến trình chuyển đổi xanh, mà còn mang lại nhiều giá trị thiết thực về kinh tế, xã hội và môi trường. Về hiệu quả kinh tế, việc đo lường, kiểm kê và quản lý phát thải khí nhà kính theo chuẩn quốc tế giúp doanh nghiệp tối ưu chi phí năng lượng, giảm lãng phí nguyên liệu, đồng thời mở ra nguồn thu mới từ việc bán tín chỉ carbon hoặc hợp tác bù đắp phát thải cho các đối tác trong và ngoài nước. Đây là hướng đi giúp MinMax Green và các doanh nghiệp khách hàng nâng cao năng lực cạnh tranh, đặc biệt trong bối cảnh các thị trường xuất khẩu lớn như châu Âu, Mỹ, Nhật Bản… yêu cầu chứng minh phát thải thấp.
Bà Tô Thị Hồng Điệp - Giám đốc Công ty Cổ Phần MinMax Green, TP.HCM
Về hiệu quả xã hội, việc tham gia thị trường tín chỉ carbon tạo động lực lan tỏa nhận thức và hành động vì phát triển bền vững trong cộng đồng doanh nghiệp. MinMax Green trở thành cầu nối giúp các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận mô hình kinh tế carbon thấp, đồng thời tạo việc làm mới trong các lĩnh vực tư vấn, đo đạc, kiểm toán phát thải, công nghệ xanh và năng lượng tái tạo. Sự xuất hiện của các hoạt động minh bạch, dựa trên dữ liệu khoa học cũng góp phần nâng cao uy tín, hình ảnh doanh nghiệp Việt trên trường quốc tế.
Đặc biệt, về lợi ích môi trường, quá trình tính toán, kiểm kê và giao dịch tín chỉ carbon giúp MinMax Green và đối tác cắt giảm đáng kể lượng phát thải CO₂, thúc đẩy đầu tư vào công nghệ sạch, năng lượng tái tạo và mô hình tuần hoàn tài nguyên. Mỗi tín chỉ carbon được xác thực không chỉ là “giấy chứng nhận” của một tấn CO₂ được giảm hoặc hấp thụ, mà còn là minh chứng cho cam kết bảo vệ hệ sinh thái và gìn giữ hành tinh xanh cho các thế hệ tương lai.
Các đại biểu cùng trao đổi về thị trường carbon tại Việt Nam
Thảo luận về những thách thức mà Việt Nam phải đối mặt trong việc đạt được mục tiêu Net Zero vào năm 2050 và phát triển thị trường carbon, PGS.TS Lưu Đức Hải - Chủ tịch Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam cho rằng có hai rào cản đang cản trở các hoạt động tập huấn về biến đổi khí hậu và hướng dẫn kiểm kê khí nhà kính. Rào cản thứ nhất là thiếu một tổ chức được công nhận ở Việt Nam để xác nhận tính toán carbon, điều cần thiết cho việc buôn bán trên thị trường thế giới. Rào cản thứ hai là việc các tổ chức nước ngoài mua tín chỉ carbon của Việt Nam, điều này có thể đe dọa khả năng cân bằng Net Zero của quốc gia trong tương lai.
PGS.TS Lưu Đức Hải - Chủ tịch Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam cho rằng có hai rào cản đang cản trở các hoạt động tập huấn về biến đổi khí hậu và hướng dẫn kiểm kê khí nhà kính
Chủ tịch Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam kiến nghị Chính phủ và Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần giải quyết khẩn cấp hai nút thắt này để xây dựng được một thị trường carbon nghiêm túc và đạt được mục tiêu khí hậu quốc gia.
Phát biểu tại Hội thảo ông Nguyễn Hoài Dương - nguyên Ủy viên Ban Thường vụ, nguyên Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Đắk Lắk, Ủy viên Ban Thường vụ Hội Nước và Môi trường Việt Nam, nhấn mạnh Tây Nguyên là khu vực có tiềm năng rất lớn trong phát triển nông lâm nghiệp cũng như năng lượng tái tạo đặc biệt là điện gió và điện mặt trời. Theo ông, nếu có cơ chế và chính sách phù hợp, đây sẽ là những lĩnh vực có thể trở thành động lực quan trọng trong tiến trình giảm phát thải và phát triển kinh tế xanh.
Ông Nguyễn Hoài Dương - nguyên Ủy viên Ban Thường vụ, nguyên Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Đắk Lắk, Ủy viên Ban Thường vụ Hội Nước và Môi trường Việt Nam
Ông Dương cho biết, trong nông nghiệp đặc biệt là lĩnh vực trồng trọt dư địa để áp dụng các giải pháp sản xuất và canh tác các-bon thấp còn rất lớn. Mặc dù mức phát thải của ngành nông nghiệp hiện chưa cao so với các lĩnh vực khác, song đây lại là lĩnh vực có vai trò quan trọng trong chiến lược giảm phát thải quốc gia.
“Chúng tôi kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng như Chính phủ cần cụ thể hóa chính sách, xây dựng các vùng thí điểm, ban hành quy trình và tiêu chuẩn rõ ràng để đưa nông nghiệp đặc biệt là lâm nghiệp thực sự tham gia vào thị trường carbon,” ông Dương đề xuất.
Bên cạnh đó, ông cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kiểm kê và tính toán phát thải nhằm tạo cơ sở cho hoạt động mua bán tín chỉ carbon. “Đây là một vấn đề lớn, đòi hỏi sự vào cuộc đồng bộ của các bộ, ngành và tổ chức liên quan. Nếu không có sự hỗ trợ, việc triển khai sẽ rất khó khăn. Đồng thời, Nhà nước cũng cần xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ cụ thể, kèm theo các quy định pháp lý mang tính ràng buộc cao hơn để tạo hành lang pháp lý vững chắc cho thị trường carbon phát triển,” ông Dương nhấn mạnh.
Tại Hội thảo, bà Trần Thị Minh Hà – Phó Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp Môi trường chia sẻ về vấn đề tín chỉ carbon. Theo đó, mới đây Thủ tướng Chính phủ vừa ra Quyết định số 21 đưa ra các quy định về tiêu chí của môi trường rất rõ ràng. Trong đó, nêu rõ đâu là danh mục dự án xanh và đưa ra cơ chế đó là tín chỉ xanh và tài nguyên xanh.
Bà Trần Thị Minh Hà – Phó Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp Môi trường phát biểu tại Hội thảo
Phó Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp Môi trường chia sẻ: “Năm 1997, Nghị định thư Kyoto có hiệu lực. Thời điểm này, chúng ta chỉ tập trung vào các dự án sạch CDM (Cơ chế phát triển sạch) và chỉ có doanh nghiệp vừa và nhỏ được thực hiện. Sau đó, từ năm 2010, chúng ta bắt đầu nghiên cứu JI (Cơ chế đồng thực hiện). Hiện nay, tỷ lệ giữa CDM và JI chủ yếu là rừng và tín chỉ các bon thu hoạch cũng chủ yếu là rừng. Vì vậy, đây là yếu tố quan trọng cho thị trường carbon. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng được hỗ trợ lớn từ Nghị quyết 68 vừa ban hành hồi tháng 5. Bên cạnh đó, Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành quyết định mới 1894 quy định phát triển công nghiệp môi trường Việt Nam trong đó quy định rất rõ công ty hoạt động xanh ra sao và doanh nghiệp phải đạt yêu cầu như thế nào để được công nhận có hoạt động xanh”.
Phát biểu kết luận Hội thảo, ông Nguyễn Văn Toàn – Phó Chủ tịch Hội Nước và Môi trường Việt Nam, Tổng biên tập Tạp chí Môi trường và Cuộc sống nhấn mạnh, các tham luận đã cung cấp nhiều thông tin khoa học, thực tiễn, làm rõ vai trò, cơ chế và kinh nghiệm xây dựng thị trường các-bon trong nước và quốc tế. Các đại biểu cũng đã trao đổi cởi mở về cơ hội, thách thức và những bước chuẩn bị để doanh nghiệp tham gia hiệu quả vào thị trường tín chỉ carbon.
Ông khẳng định, những nội dung thảo luận có ý nghĩa quan trọng, góp phần hoàn thiện hành lang pháp lý, cơ chế vận hành và làm rõ lợi ích kinh tế, xã hội, môi trường khi tham gia thị trường carbon – công cụ then chốt để Việt Nam đạt mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Ông bày tỏ tin tưởng, các kiến nghị và giải pháp được đưa ra sẽ là nền tảng quan trọng thúc đẩy hình thành và vận hành hiệu quả thị trường carbon tại Việt Nam trong thời gian tới.
PV/TNNN
Khai mạc trọng thể Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá XV
Bàn giải pháp tháo gỡ vướng mắc trong hoạt động hợp chuẩn, hợp quy hàng hóa
Không tạo “giấy phép con”, giảm gánh nặng hành chính trong hoạt động hợp chuẩn, hợp quy
VINAFIS và USSEC – Định hình ngành thủy sản Việt Nam phát triển xanh, bền vững
VinaFIS Expo 2026 – Khởi động sự kiện thủy sản tầm quốc tế
Khai mạc Hội nghị Trung ương lần thứ 13
Bài phát biểu khai mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII
Nghiên cứu giải pháp đồng bộ bảo đảm an toàn thực phẩm học đường
Việt Nam khẳng định quyết tâm “tuyên chiến” với IUU - chấm dứt tình trạng này trước ngày 15/11/2025
Bàn giải pháp “Bịt lỗ hổng ‘rau bẩn’ vào trường học, siêu thị”